»

Thời gian giao dịch phục vụ khách hàng tại các Chi nhánh, PGD của VietinBank - Từ thứ 2 tới thứ 6 (trừ ngày lễ, tết).

NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM BÁO CÁO THƯỜNG NIÊN 2002

NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM

BÁO CÁO THƯỜNG NIÊN 2002

NỘI DUNG
-
Khái quát về ngân hàng Công thương Việt Nam năm 2002
-
Phát biểu của ông chủ tịch HĐQT NHCTVN
-
Vài nét tình hình kinh tế Việt Nam 2002
-
Khái quát hoạt động kinh doanh năm 2002
-
Đề án cơ cấu lại NHCTVN năm 2002
-
Báo cáo tài chính năm 2002
-
Phân tích báo cáo tài chính năm 2002

KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM NĂM 2002

- Thành lập năm 1998, là một trong bốn ngân hàng thương mại Nhà nước lớn nhất của Việt Nam và được xếp hạng là một trong 23 doanh nghiệp đặc biệt.

- Có Hệ thống mạng lưới gồm 2 Sở Giao dịch, 114 chi nhánh, 139 phòng giao dịch và 383 quỹ tiết kiệm cùng 2 đơn vị sự nghiệp là Trung tâm Ðào tạo và Trung tâm Công nghệ Thông tin.

- Sở hữu các công ty con: Công ty Cho thuê Tài chính, Công ty TNHH Chứng khoán và Công ty Quản lý Tài sản.

- Ðồng sáng lập và là cổ đông chính trong Indovina Bank, Công ty Cho thuê Tài chính Quốc tế Việt Nam và Công ty Liên doanh Bảo hiểm Châu á - NHCT.     

- Có mạng lưới đại lý với 623 ngân hàng trên khắp thế giới.

- Các dịch vụ cung cấp: Mở tài khoản thanh toán và nhận tiền gửi, đầu tư cho vay và bảo lãnh, tài trợ thương mại, chuyển tiền, phát hành và thanh toán thẻ, séc du lịch, kinh doanh ngoại hối, kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm và cho thuê tài chính v.v.


- Là một trong những ngân hàng thương mại đi đầu trong việc cải tiến công nghệ ngân hàng và hiện đại hoá ngân hàng ở Việt Nam. Chủ trì tiểu dự án - Thanh toán điện tử trong Thương mại điện tử - thuộc Dự án quốc gia về xây dựng khung chính sách phát triển Thương mại Ðiện tử của Chính phủ Việt Nam.


- Là thành viên chính thức của Hiệp hội các Ngân hàng Châu á, Hiệp hội Thanh toán Viễn thông Liên ngân hàng Toàn cầu, Hiệp hội thẻ Visa, Master, Hiệp hội các ngân hàng Việt Nam và Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.


BÀI PHÁT BIỂU CỦA ÔNG CHỦ TỊCH HĐQT NHCTVN

Thưa quý vị,

Năm 2002, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục đạt được những thành tựu khả quan với tốc độ tăng trưởng GDP đạt 7,04%, là mức cao nhất trong 4 năm qua. Hầu hết các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của Nhà nước đã hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch.

Tuy nhiên, kinh tế Việt Nam vẫn còn nhiều khó khăn, thử thách lớn do bị ảnh hưởng bởi diễn biến phức tạp của nền kinh tế thế giới, nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam giảm đáng kể, thị trường vốn và thị trường xuất khẩu một số hàng hoá thế mạnh của Việt Nam bị thu hẹp, giá cả vừa giảm sút vừa không ổn định, sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ còn thấp v.v.

Hoạt động của hệ thống ngân hàng năm qua tiếp tục có những chuyển biến tích cực trên cơ sở Ngân hàng Nhà nước đã mở ra nhiều cơ chế tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các tổ chức tín dụng như: Cơ chế lãi suất thoả thuận trong hoạt động tín dụng; giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc; đẩy mạnh hoạt động của thị trường tiền tệ, thị trường mở; SWAP ngoại tệ v.v.

Những thuận lợi và khó khăn trên đã ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh và quan
hệ của khách hàng với ngân hàng. Năm 2002, NHCTVN đã hoàn thành tốt các nhiệm
vụ kinh doanh với các chỉ tiêu chính: Tổng nguồn vốn huy động tăng 19,7%; các
khoản cho vay và đầu tư tăng 21,4% so với năm 2001. NHCTVN đã thực hiện thành
công nhiều giải pháp huy động vốn linh hoạt như phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, tiết kiệm dự thưởng v.v., nên đảm bảo được khả năng thanh toán và đáp ứng tốt nhu cầu vốn vay của nền kinh tế. Hoạt động tín dụng đã có bước chuyển biến về chất như chú trọng đầu tư cho các khách hàng, ngành hàng có độ rủi ro thấp; tăng tỷ lệ cho vay có đảm bảo. Nhờ phát triển tốt hoạt động kinh doanh, lợi nhuận năm 2002 của NHCTVN thực hiện vượt 6% so với kế hoạch đề ra.

Ðề án cơ cấu lại tổ chức và hoạt động đang được triển khai có kết quả. Công tác xử lý thu hồi nợ tồn đọng năm 2002 đã có bước chuyển biến tích cực với việc trích quỹ dự phòng xử lý rủi ro trên 700 tỷ đồng (gấp 1,5 lần kế hoạch) và đẩy nhanh tốc độ xử lý tài sản, xử lý thu hồi nợ tồn đọng được trên 1.300 tỷ đồng. Do đạt kế hoạch thu hồi nợ tồn đọng trong hai năm 2001, 2002 được trên 2.200 tỷ đồng theo tiến độ đề án cơ cấu lại nợ đã được Chính phủ phê duyệt nên trong năm 2002 NHCTVN đã được cấp bổ sung 1.000 tỷ đồng vốn điều lệ. Hệ thống màng lưới được mở rộng, năm
2002 NHCTVN đã nâng cấp thêm 1 chi nhánh cấp II lên cấp I và thành lập 7 chi nhánh cấp II tại những địa bàn kinh tế phát triển.

NHCTVN đã đưa vào triển khai thí điểm dự án hiện đại hoá chi nhánh (OSFA) và đang đẩy nhanh việc triển khai đồng bộ dự án hiện đại hoá ngân hàng và hệ thống thanh toán do Ngân hàng Thế giới tài trợ. Mặt khác, NHCTVN đã tổ chức nghiên cứu và chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc phát hành thẻ tín dụng quốc tế VISA/Master, thẻ tiền lẻ và nâng cao chất lượng các sản phẩm dịch vụ ATM hiện có.

NHCTVN đã phối hợp với đối tác hoàn tất các thủ tục cần thiết thành lạap liên doanh bảo hiểm phi nhân thọ với số vốn ban đầu 6 triệu USD, dự kiến đi vào hoạt động vào đầu năm 2003.

Những kết quả đạt được trong năm 2002 đã góp phần tạo thế và lực mới, tạo đà để NHCTVN thực hiện thắng lợi nhiệm vụ những năm tiếp theo.

Năm 2003, năm NHCTVN tròn 15 tuổi, cùng với việc “Phát triển - an toàn - hiệu
quả”, mục tiêu “Hội nhập và phát triển” đang được nghiên cứu và chuẩn bị điều kiện để thực hiện đúng lộ trình Ðề án cơ cấu lại Ngân hàng Công thương đã được phê duyệt. Những chỉ tiêu kinh doanh năm 2003 của NHCTVN được đặt ra là: Nguồn vốn huy động tăng 22 - 24%, dư nợ cho vay nền kinh tế tăng 20 - 22%; tỷ trọng dư nợ trung và dài hạn chiếm tỷ trọng tối đa 40% trong tổng dư nợ, tỷ lệ nợ quá hạn dưới 5%, lợi nhuận và trích lập quỹ dự phòng rủi ro cao hơn năm 2002. Ðể đạt được các chỉ tiêu này, một số biện pháp chủ yếu được triển khai gồm: Ða dạng hoá các biện
pháp huy động vốn có tính cạnh tranh cao, phù hợp và nhạy cảm với thị trường trong nước và quốc tế, tính toán huy động vốn trung dài hạn cho từng dự án đầu tư; định hướng và quản lý đầu tư tín dụng theo khách hàng, ngành hàng, đảm bảo nguyên tắc thương mại và thị trường; đổi mới quy trình kỹ thuật nghiệp vụ, phát triển các sản phẩm và dịch vụ mới theo hướng nâng cao chất lượng và năng lực cạnh tranh tiến tới các tiêu chuẩn, chất lượng khu vực và quốc tế; đẩy nhanh tiến độ xử lý nợ tồn đọng.

Bên cạnh các giải pháp kỹ thuật nghiệp vụ, năm 2003 NHCTVN sẽ tập trung nguồn
lực cho việc đổi mới đồng bộ về cơ cấu tổ chức, quản lý và hoạt động theo tiêu chuẩn quốc tế, cơ cấu lại về tài chính và tăng cường các biện pháp quản lý rủi ro, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Chúng tôi tin tưởng hệ thống NHCTVN sẽ thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra.

Nhân dịp này, thay mặt Hội đồng quản trị, Ban điều hành và toàn thể cán bộ, nhân viên NHCTVN, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc về sự chỉ đạo và giúp đỡ có hiệu quả của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và các ban ngành hữu quan, các bạn hàng trong và ngoài nước đặc biệt là sự hợp tác chặt chẽ và sự tin tưởng của Khách hàng đã góp phần to lớn vào thành công của NHCTVN trong năm 2002 và những năm qua.

Chúng tôi mong muốn và hy vọng sẽ tiếp tục nhận được sự quan tâm và hợp tác có
hiệu quả hơn nữa của các Quý vị.

Trân trọng !

TS. Nguyễn Văn Bính

Chủ tịch Hội đồng quản trị

 

VÀI NÉT TÌNH HÌNH KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2002

Năm 2002, tăng trưởng kinh tế toàn cầu đạt mức 2,8%. Trong khi thương mại và sản xuất công nghiệp nhích lên thì thị trường tài chính lại suy yếu đi đáng kể.


Tuy những diễn biến chung tương đối bất lợi đối với Việt nam, đặc biệt là sau giai đoạn bị chững lại do khủng hoảng Ðông á, năm 2002 vẫn là một năm thành công của nền kinh tế Việt Nam với hầu hết các chỉ tiêu đều đạt và vượt mức kế hoạch đề ra.


Tốc độ tăng trưởng GDP đạt 7,04%, cao hơn các nước trong khu vực, chỉ sau Trung Quốc. Lạm phát được kiềm chế ở mức 4%. Ðây là hệ quả của một loạt các biện pháp và chính sách của chính phủ nhằm đưa nền kinh tế phát triển theo xu hướng tăng trưởng trung hạn tốt hơn.


Ðầu tư nước ngoài thấp hơn nhiều năm 2001 nhưng mức thực hiện hầu như không giảm sút, điều đó phản ánh phần nào vị thế của Việt Nam trong khu vực Ðông á trong lúc đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu vực này đang giảm sút.


Kiều hối từ kiều bào Việt Nam ở nước ngoài đưa về vượt trên 2 tỷ USD đã cung cấp một nguồn ngoại tệ đáng kể cho đất nước.


Sản lượng công nghiệp tăng 14,4%. Năm 2002 là năm thứ 12 sản lượng công nghiệp liên tục tăng ở mức 2 chữ số, Sản lượng nông nghiệp cũng tăng 5% dù bị ảnh hưởng nhiều do thiên tai lũ lụt nghiêm trọng tại khu vực miền Trung và miền Nam.


Khu vực ngoài quốc doanh vẫn tiếp tục dẫn đầu trong tăng trưởng với tốc độ tăng trưởng 19% so với 12% của khu vực nhà nước, chủ yếu do tỷ lệ doanh nghiệp mới được thành lập ở mức cao năm 2002. Ðầu tư của các doanh nghiệp mới vừa và nhỏ đạt xấp xỉ 2,7 tỷ USD, tương đương 9% GDP.


Năm 2002 kim ngạch xuất khẩu đạt 16.530 tỷ USD, tăng trên 10% so với 2001. Kim ngạch nhập khẩu đạt 19,3 tỷ USD, tăng 20% so với 2001. Riêng khu vực có vốn đầu tư nước ngoài nhập trên 6,5 tỷ USD phục vụ cho sản xuất và chế biến. Năm 2002 Việt Nam nhập siêu 2,77 tỷ USD.

Khu vực tài chính ngân hàng cũng có những chuyển biến tích cực theo định hướng thương mại. Các biện pháp được tiến hành cho đến nay bao gồm tự do hoá lãi suất, thực hiện tái cơ cấu đối với các ngân hàng thương mại nhà nước, thành lập các công ty quản lý tài sản thuộc ngân hàng để giải quyết các khoản nợ không sinh lời, tái cấp vốn cho 4 ngân hàng thương mại nhà nước, tách bạch cho vay chính sách khỏi các ngân hàng thương mại bằng việc thành lập Ngân hàng Chính sách Xã hội.

Mức tăng trưởng cao của 2002 và những tiền đề cho tốc độ tăng trưởng này là tín hiệu khả quan để tin rằng năm 2003 có thể hoàn thành các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu đã đặt ra.

KHÁI QUÁT HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NĂM 2002

Huy động vốn


Với thế mạnh về mạng lưới chi nhánh ở khắp các tỉnh, thành phố trong cả nước, có quan hệ truyền thống lâu năm với nhiều doanh nghiệp ở mọi ngành, mọi thành phần kinh tế và các tầng lớp dân cư, NHCTVN luôn duy trì được tốc độ tăng trưởng vốn huy động ổn định.
 


Năm 2002, nguồn tiền gửi đạt xấp xỉ 55 nghìn tỷ đồng, tăng 20% so với cuối năm 2001; trong đó tiền gửi VNÐ tăng 25%, tiền gửi ngoại tệ tăng 7%. Nguyên nhân cơ bản là lãi suất tiền gửi VNÐ và lãi suất USD có xu hướng trái chiều nhau vì nền kinh tế tăng trưởng tương đối ổn định làm cho cầu tín dụng VNÐ tăng lên, nhu cầu vốn tăng dẫn đến các ngân hàng thương mại buộc phải nâng lãi suất huy động VNÐ.


Ngược lại lãi suất của đồng USD bị cắt giảm xuống mức thấp nhất trong 40 năm qua (1,25%/năm), làm cho lãi suất USD trong nước cũng giảm theo, trong khi tỷ giá VND/USD chỉ biến động rất ít (tăng 2,1% cho cả năm).Ðể đáp ứng vốn cho nhu cầu tín dụng cũng như ổn định thanh toán, ngoài các hình thức huy động tiền gửi thông thường, cuối năm 2002 lần đầu tiên NHCTVN phát hành trái phiếu kỳ hạn 2 năm và đã thu hút lượng vốn hơn 2 nghìn tỷ đồng.

Hình thức huy động tiền gửi tiết kiệm dự thưởng cũng bắt đầu áp dụng từ năm 2002 đã lôi cuốn được sự quan tâm của nhiều tầng lớp nhân dân có tiền nhàn rỗi muốn gửi tiền vào ngân hàng. Hiện nay nguồn tiền gửi dân cư chiếm 40% tổng nguồn vốn huy động và là nguồn huy động ổn định nhất trong cơ cấu tài sản nợ.


Cho vay và đầu tư

Năm 2002 đánh dấu một năm nhu cầu tín dụng của nền kinh tế tăng mạnh. Bên cạnh đó Chính phủ và NHNN cũng ban hành một số nghị định và cơ chế tín dụng tháo gỡ cơ bản những vướng mắc về cơ chế cho vay trước đây, trong đó quan trọng nhất là mở rộng tối đa quyền tự chủ của các tổ chức tín dụng tự quyết định đầu tư đối với sự phát triển kinh tế.
 

Nhận thức được thuận lợi do chính sách vĩ mô đem lại, NHCTVN đã dần chuyển đổi cơ cấu đầu tư tín dụng theo hướng kinh tế ngoài quốc doanh, các xí nghiệp vừa và nhỏ, cho vay tiêu dùng. Ðây là khu vực kinh tế có nhu cầu vay rất lớn, kinh doanh năng động có hiệu quả, tạo ra nhiều việc làm cho xã hội. Mở rộng đối tượng cho vay còn đồng nghĩa với việc phân tán rủi ro. Ðối với NHCTVN nâng cao chất lượng tín dụng là nhiệm vụ luôn được đặt lên hàng đầu.

Số dự án trung dài hạn được thẩm định và ký kết cho vay trong năm 2002 nhiều hơn năm 2001, trong đó tham gia hợp vốn đồng tài trợ 5 dự án là những công trình thuộc các ngành kinh tế quan trọng, như Ðuôi hơi Phú Mỹ 2.1MR, Thuỷ điện Sê San, Xi măng Hải Phòng, Gang thép Thái Nguyên, Ðiện Cà Mau.

NHCTVN tiếp tục cho vay phát triển nông thôn, bao gồm cho vay trồng trọt chăn nuôi, cho vay thu mua lương thực, nhập khẩu phân bón, cho vay chế biến nông sản xuất khẩu v.v., số dư lên đến hơn 4 nghìn tỷ đồng.

Thị trường tiền tệ liên ngân hàng cũng chiếm số dư gần 10 nghìn tỷ, trong đó ngoại tệ đầu tư trên thị trường này gần 500 triệu USD.

Hoạt động của các đơn vị liên doanh và công ty trực thuộc mà NHCTVN cấp vốn, góp vốn đều có hiệu quả. Năm 2002, Công ty cho thuê tài chính NHCTVN đã thành công trong việc khai thác nguồn vốn trên thị trường thông qua hình thức phát hành trái phiếu.

Tuy gặp nhiều khó khăn do thị trường chứng khoán hoạt động cầm chừng, giá các loại cổ phiếu sụt giảm mạnh, nhưng công ty chứng khoán NHCTVN đã tích cực tiếp cận khách hàng, phục vụ các loại dịch vụ hưởng phí như đại lý phát hành, lưu ký chứng khoán, tư vấn niêm yết v.v., nên lợi nhuận cuối năm vẫn đạt ở mức 2,9 tỷ đồng. Công ty Quản lý và Khai thác tài sản cũng đã bán và cho thuê số tài sản trị giá gấp bốn lần so với năm 2001, góp phần tích cực giải quyết nợ tồn đọng và cơ cấu lại NHCTVN.

Hoạt động ngân hàng quốc tế

Cùng với đà tăng trưởng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước, với mạng lưới 623 ngân hàng đại lý, hoạt động thanh toán quốc tế của NHCTVN tăng mạnh trong năm 2002. Doanh số thanh toán xuất khẩu đạt trên 950 triệu USD, tăng 30% so với 2001. Doanh số thanh toán hàng nhập khẩu đạt trên 1,7 tỷ USD, tăng 18% so với năm.

Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt về chất lượng dịch vụ giữa các ngân hàng thương mại để giành khách hàng thì sự tăng trưởng nói trên là một thành công đáng khích lệ của NHCTVN nhờ có những ưu thế về mạng lưới và nền tảng công nghệ thông tin với quy trình xử lý nhanh, chính xác và hiệu quả.

Diễn biến cung cầu ngoại tệ năm 2002 khá phức tạp: Sự biến động về tỷ giá, tỷ lệ kết hối giảm, tỷ lệ nhập siêu và tỷ lệ lạm phát tăng, những biến động trên thị trường tiền tệ quốc tế đã tạo nên nhiều khó khăn trong tìm kiếm lợi nhuận... Nhờ sự linh hoạt trong điều hành tỷ giá và áp dụng các biện pháp nghiệp vụ kỳ hạn, hoán đổi nên doanh số kinh doanh ngoại tệ của NHCTVN trong năm đạt 3,9 tỷ USD và hoàn toàn đáp ứng được nhu cầu thanh toán ngoại tệ cho khách hàng.

Hoạt động chuyển tiền kiều hối tăng mạnh cũng đã góp phần tăng thu ngoại tệ cho ngân hàng. Năm 2002, doanh số chuyển tiền kiều hối của NHCTVN đạt 270 triệu USD, tăng gấp đôi so với năm 2001.

Dịch vụ thanh toán thẻ tín dụng của NHCTVN cũng được mở rộng, doanh số thanh toán năm 2002 tăng 22% so với 2001.

Phát triển công nghệ

Năm 2002, NHCT đã đưa nhiều dịch vụ ngân hàng điện tử vào hoạt động như ngân hàng qua Internet, dịch vụ tài khoản điện tử dành cho cá nhân và doanh nghiệp v.v. và đưa vào vận hành các sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại như dịch vụ quản lý vốn, dịch vụ thanh toán thẻ, chuyển tiền tự động đồng thời triển khai rất nhiều các dự án ứng dụng công nghệ thông tin nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ và quản lý.

NHCTVN tiếp tục triển khai kế hoạch nâng cấp hệ thống mạng của các chi nhánh từ hệ thống mạng Bus lên mạng hình sao, bổ sung 40 đường truyền Leased Line giữa các chi nhánh với trụ sở chính tạo tiền đề cho việc triển khai các dịch vụ mới của NHCTVN.

Trung tâm CNTT đã nghiên cứu và phát triển ứng dụng phục vụ công tác quản lý thông tin tín dụng, chương trình quản lý phát hành trái phiếu cho phép khách hàng giao dịch ở bất cứ chi nhánh nào.

Tiếp theo việc triển khai hệ thống ATM trong giải pháp tự động hóa Chi nhánh (OSFA), đội ngũ kỹ thuật NHCTVN phối hợp với đối tác Getronics hoàn tất phát triển ứng dụng giao dịch theo mô hình Ngân hàng hiện đại (giao dịch một cửa).

Ðây là giải pháp được tích hợp với hệ thống ATM, quản lý tài khoản khách hàng, quản lý mẫu dấu chữ ký, xử lý giao dịch tập trung với các thiết bị chuyên dùng, được triển khai thành công từ tháng 8/2002 cho Chi nhánh Ðống đa, 2 phòng giao dịch và 01 Quỹ tiết kiệm.

Hệ thống này cho phép khách hàng sử dụng thiết bị bảo mật SecureID card truy cập từ trụ sở của mình để thực hiện các giao dịch, đồng thời cho phép vấn tin giao dịch qua Internet.

Dự án hiện đại hoá ngân hàng và hệ thống thanh toán do World Bank tài trợ chính thức triển khai thực hiện hợp đồng từ đầu năm 2002. Tháng 11/2002 hai bên đã thống nhất ký kết các bản phân tích sự khác biệt (GAP) của hệ thống mới và đi vào giai đoạn tuỳ chỉnh ứng dụng theo nhu cầu của NHCTVN, phù hợp với thông lệ và tiêu chuẩn quốc tế.

Cũng trong năm 2002, NHCTVN đã hoàn thành giải pháp Thanh toán điện tử trong thương mại điện tử hỗ trợ các doanh nghiệp giao dịch thương mại điện tử. Sản phẩm “INCOM-EBANK” về giải pháp trên đã được nhận giải thưởng Cúp vàng tại Tuần lễ Tin học Việt Nam lần thứ 11 do Hội tin học Việt Nam tổ chức.

Năm 2003, NHCTVN sẽ tiếp tục đầu tư nâng cấp hệ thống công nghệ thông tin và trang thiết bị tin học, tăng cường đào tạo nâng cao kiến thức và kỹ năng, sử dụng kỹ thuật tiên tiến áp dụng trong hoạt động ngân hàng, phù hợp với yêu cầu phát triển nghiệp vụ, đặc biệt trong các lĩnh vực sử dụng công nghệ mang tính cạnh tranh, kết hợp công nghệ thông tin với chiến lược kinh doanh và quản lý rủi ro cũng sẽ được đặc biệt chú trọng.

ĐỀ ÁN CƠ CẤU LẠI NHCTVN NĂM 2002

Năm 2002 là năm thứ hai NHCTVN thực hiện Ðề án cơ cấu lại tổ chức và hoạt động trong giai đoạn 10 năm (2001 - 2010) với mục tiêu chiến lược phát triển NHCTVN đến năm 2010: “Xây dựng NHCTVN thành một ngân hàng thương mại chủ lực và hiện đại của Nhà nước, hoạt động kinh doanh có hiệu quả, tài chính lành mạnh, kỹ thuật công nghệ cao, kinh doanh đa chức năng, chiếm thị phần lớn ở Việt Nam”.

Phương châm hành động là: “Phát triển - An toàn - Hiệu quả và Hội nhập”

Kết quả sau hai năm thực hiện Ðề án Tái cơ cấu đã được Chính phủ phê duyệt, NHCTVN đã hoàn thành cơ bản các chỉ tiêu theo đúng tiến độ và lộ trình cam kết với Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng Thế giới.

Trong hai năm 2001 và 2002 NHCTVN đã giải quyết trên 2.200 tỷ đồng nợ khó đòi và nợ tồn đọng, trong đó chỉ riêng trong năm 2002 đã xử lý được 1.300 tỷ đồng, làm giảm hẳn tỷ lệ nợ quá hạn từ 9,4% năm 2000 xuống 3,9% năm 2002, qua đó nâng cao năng lực tài chính của ngân hàng.

Chỉ tiêu trích dự phòng rủi ro đều đạt và vượt trên 1,5 lần so với kế hoạch hàng năm, nhờ đó đã tạo nguồn vốn hỗ trợ tốt cho việc xử lý nợ tồn đọng, đồng thời từng bước điều chỉnh các chỉ tiêu tài chính theo các chuẩn mực quốc tế cơ bản. Các tiêu chuẩn kế toán cũng dần được điều chỉnh theo thông lệ quốc tế. Từ năm 2001 NHCTVN đã thực hiện chế độ kế toán dự thu, dự trả.

NHCTVN song song thực hiện việc triển khai Dự án Hiện đại hoá ngân hàng và hệ thống thanh toán, trên cơ sở đó tiến hành điều chỉnh cơ cấu lại tổ chức bộ máy và hoạt động kinh doanh theo mô hình một ngân hàng thương mại hiện đại, chú trọng phát triển các sản phẩm và dịch vụ hiện đại đồng thời tăng thêm các dịch vụ tiện ích trong lĩnh vực ngân hàng và tài chính. Việc kiểm toán quốc tế hàng năm cũng được thực hiện.

Năm 2002, do thực hiện thành công giai đoạn 1 của Ðề án Tái cơ cấu nên tháng 10/2002 Chính phủ đã cấp bổ sung 1.000 tỷ đồng vốn điều lệ cho NHCTVN, nâng tổng vốn lên 3.173 tỷ đồng.

Tiềm lực tài chính được tăng lên là một thuận lợi lớn cho kinh doanh, các chỉ số an toàn được cải thiện, uy tín được nâng cao, tăng khả năng đầu tư cải tiến công nghệ hiện đại hoá hoạt động ngân hàng, là bước khởi đầu cho một giai đoạn phát triển mới của NHCTVN. Khả năng NHCTVN sẽ hoàn tất kế hoạch cơ cấu lại ngân hàng theo đúng kế hoạch được phê duyệt.

BÁO CÁO TÀI CHÍNH

Báo cáo tài chính đã được Công ty Kiểm toán và Tư vấn A&C (Bộ Tài chính)kiểm toán cho năm tài chính kết thúc vào ngày 31/12/2002

Cơ sở lập các báo cáo tài chính

Các báo cáo tài chính của NHCTVN được lập theo chế độ Kế toán của Việt Nam áp dụng cho các tổ chức tín dụng do NHNN Việt Nam ban hành. Riêng báo cáo tài chính của Công ty chứng khoán NHCTVN áp dụng Hệ thống Kế toán Công ty chứng khoán do Bộ Tài Chính Việt Nam ban hành.

Các báo cáo tài chính tổng hợp thể hiện số liệu hoạt động của toàn Hệ thống NHCTVN bao gồm Hội sở chính; Sở giao dịch I, II; Các chi nhánh; Công ty cho thuê tài chính; Công ty Quản lý và Khai thác tài sản; Các đơn vị sự nghiệp như Trung tâm đào tạo, Trung Tâm Công Nghệ Thông Tin.

Niên độ Kế toán từ 1/1/2002 đến 31/12/2002.

Ðơn vị tính trong các báo cáo tài chính tổng hợp là triệu đồng Việt Nam.

Tóm lược một số nguyên tắc kế toán chủ yếu

1. Nguyên tắc chuyển đổi: Tài sản và công nợ thể hiện bằng các đồng tiền khác với Ðồng Việt Nam được qui đổi thành Ðồng Việt Nam theo tỷ giá do NHCTVN công bố vào ngày 31/12/2002 (15.403 VND/USD). Những nghiệp vụ phát sinh bằng ngoại tệ trong năm được ghi theo nguyên tệ và qui đổi ra VND theo tỷ giá tại ngày phát sinh nghiệp vụ. Chênh lệch tỷ giá do đánh giá lại ngoại tệ kinh doanh và chênh lệch của các nghiệp vụ phát sinh trong năm được hạch toán vào kết quả lỗ, lãi.

2. Hạch toán doanh thu, chi phí: Theo qui định của NHNNVN, từ năm 2001 NHCTVN đã thực hiện chế độ kế toán dự thu, dự trả trong việc Hạch toán thu nhập và chi phí.

3. Cho vay: Phản ánh dư nợ gốc chưa thanh toán đến 31/12/2002, bao gồm cả các khoản cho vay, cho vay đồng tài trợ, chiết khấu, cầm cố giấy tờ có giá, cho thuê tài chính, cho vay do bảo lãnh.

4. Góp vốn liên doanh, mua cổ phần được hạch toán bằng nguyên tệ số vốn thực góp và được qui đổi thành đồng Việt Nam.

5. Tài sản cố định được tính nguyên giá trừ đi hao mòn luỹ kế. Tỷ lệ khấu hao được tính theo quy định của Bộ Tài Chính.

6. Lãi chưa phân phối được xác định bằng kết quả kinh doanh còn lại chưa phân phối vào các quỹ sau khi đã trừ các khoản thuế thu nhập, thuế vốn, các khoản tạm trích vào các quỹ.
 

.

PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH

Nguồn vốn sử dụng

Tài sản có

Năm 2002, tổng tài sản của NHCTVN đạt 67.980 tỷ đồng và tăng 16,5% so với 2001. Các tài sản chiếm tỷ trọng lớn là cho vay, tiền gửi trên thị trường liên ngân hàng và đầu tư vào chứng khoán.

Tỷ trọng dư nợ cho vay chiếm phần chủ yếu trong tổng tài sản, đạt 69% năm 2002. Trong tổng dư nợ cho vay, cho vay trung, dài hạn chiếm 40% và tăng 35% so với 2001. Tỷ lệ cho vay khu vực kinh tế Nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân cũng biến đổi theo xu hướng tỷ trọng cho vay khu vực kinh tế Nhà nước giảm và cho vay tư nhân tăng lên.

Năm 2002, NHCTVN thực hiện xoá nợ được trên 553 tỷ VNÐ. Tuy nhiên số nợ này vẫn được theo dõi ngoại bảng và NHCTVN vẫn nỗ lực thu hồi lại số nợ trên.

Các giao dịch trên thị trường liên hàng và thị trường tiền tệ tăng 8,2% so với 2001, trong đó chủ yếu là nguồn tiền nhàn rỗi đầu tư vào thị trường liên ngân hàng và thị trường tiền tệ nhằm tăng hệ số sử dụng vốn, tăng thu nhập cho ngân hàng đồng thời tăng khả năng thanh khoản.

Một khoản mục nữa có thể đảm bảo tính thanh khoản của ngân hàng là đầu tư chứng khoán. Ðầu tư vào chứng khoán năm 2002 tăng 46%, trong đó chủ yếu là tăng đầu tư chứng khoán Chính phủ do khoản trái phiếu được Chính phủ cấp vốn bổ sung trong năm 2002.

Vốn chủ sở hữu

NHCTVN là ngân hàng 100% sở hữu của Nhà nước. Vốn được hình thành từ vốn Nhà nước giao và vốn tự bổ sung từ lợi nhuận để lại trong quá trình hoạt động kinh doanh. Năm 2002, NHCT được NHNN cấp bổ sung 1.000 tỷ đồng vốn điều lệ dưới dạng trái phiếu chính phủ, nâng tổng vốn chủ sở hữu của NHCT lên 3.173 tỷ đồng. Số trái phiếu này có thời hạn 20 năm và được trả lãi suất cố định 3,3%/năm.

Tài sản nợ

Các khoản mục chiếm tỷ trọng lớn trong tài sản nợ là tiền gửi của khách hàng và các tổ chức tài chính, vốn huy động từ phát hành kỳ phiếu, trái phiếu và một phần nhỏ là vốn đi vay.


Ðến cuối 2002, tổng tiền gửi của khách hàng đạt 48 nghìn tỷ đồng, chiếm 71% tổng tài sản của ngân hàng và tăng 12% so với 2001 nhờ uy tín của NHCTVN và sự linh hoạt trong điều hành chính sách lãi suất của ngân hàng.

Ngoài ra, NHCTVN còn thực hiện việc đa dạng các sản phẩm huy động vốn và đã thu hút được gần 4,5 nghìn tỷ đồng qua các hình thức phát hành kỳ phiếu, trái phiếu bằng cả VNÐ và ngoại tệ, từng bước cải thiện cơ cấu nguồn vốn từ ngắn hạn sang trung và dài hạn.

Kết quả hoạt động KD

Thu nhập

Tổng thu nhập tăng 19% và thu nhập sau thuế tăng 14% so với năm 2001. Trong tổng các nguồn thu của ngân hàng, thu nhập từ lãi chiếm 93%, trong khi thu nhập từ phí và dịch vụ chỉ chiếm 7%.

Thu từ lãi tăng 20% so với năm 2001, trong đó thu lãi cho vay chiếm tới 83% tổng thu nhập, tăng 38% so với năm 2001. Nguyên nhân chủ yếu do dư nợ cho vay nền kinh tế tăng 19% so với 2001 và lãi suất cho vay trên thị trường cũng tăng.

Trong khi đó, dù số dư tiền gửi tại NHNN và các TCTD tăng nhưng thu lãi tiền gửi lại giảm. Nguyên nhân chính do số dư tiền gửi bình quân trong năm 2002 thấp hơn so với số dư cuối năm. Ngoài ra lãi suất tiền gửi ngoại tệ (khoản mục chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong tổng tiền gửi) giảm mạnh xuống 1,25%, mức thấp nhất trong 40 năm qua, cũng ảnh hưởng tới thu lãi tiền gửi. Chênh lệch tỷ lệ lãi suất tăng 0,12% một phần nhờ giảm nợ quá hạn không sinh lời, một phần khác do NHCTVN đã có những cải thiện nhât định trong việc quản lý tài sản.

Trong thu nhập ngoài lãi, thu phí dịch vụ chiếm tới 52, trong đó chủ yếu là thu từ dịch vụ thanh toán. Năm 2002 thu phí dịch vụ tăng 23% so với 2001. Ðiều này phản ánh những nỗ lực của NHCTVN trong việc thực hiện phương châm tăng tỷ trọng thu nhập từ phí trong tổng thu nhập của ngân hàng, phù hợp với xu thế kinh doanh hiện đại.

Chi phí

Trong tổng chi phí, chi phí trả lãi chiếm 64%, chi phí hoạt động kinh doanh chiếm 19% và chi phí dự phòng rủi ro chiếm 17%.

Chi dự phòng năm 2002 tăng 72% so với 2001 và do đó ảnh hưởng rất lớn đến thu nhập sau thuế của ngân hàng.

Chi trả lãi tiền gửi và kỳ phiếu tăng 9%, xuất phát từ nguyên nhân NHCTVN tăng lãi suất huy động VNÐ (chiếm tới 58% trong tổng vốn huy động) trung bình 0,08%/tháng để thu hút thêm nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư, kết quả là số dư tiền gửi vào cuối 2002 tăng 12% so với 2001.

Chi trả lãi tiền vay tăng 28% dù số dư vay nợ giảm do trong năm 2002 thị trường vốn khan hiếm, cung cao hơn cầu nên lãi suất cho vay trên thị trường liên ngân hàng tăng nhiều so với năm 2001.